Vi nhân giống là gì? Các công bố khoa học về Vi nhân giống

Vi nhân giống là quá trình tạo ra những cá thể mới bằng cách kết hợp các đặc điểm di truyền từ hai cá thể cha mẹ. Việc này có thể xảy ra tự nhiên hoặc được thực...

Vi nhân giống là quá trình tạo ra những cá thể mới bằng cách kết hợp các đặc điểm di truyền từ hai cá thể cha mẹ. Việc này có thể xảy ra tự nhiên hoặc được thực hiện thông qua các phương pháp nhân tạo như tiêm gen, phân tử sinh học hay phôi thai nhân tạo. Vi nhân giống có thể được sử dụng để tạo ra những cá thể có những đặc điểm di truyền tốt hơn nhằm cải thiện chất lượng và năng suất trong sản xuất nông nghiệp và thủy sản, hoặc để tạo ra những cá thể có các đặc điểm đa dạng trong mục đích nghiên cứu khoa học hay chăm sóc thú cưng.
Vi nhân giống là quá trình tạo ra những cá thể mới có sự kết hợp của các gen từ hai cá thể cha mẹ. Quá trình này bắt đầu từ việc thu thập trứng và tinh trùng từ hai cá thể cha mẹ. Trứng và tinh trùng sau đó được kết hợp lại thông qua các phương pháp nhân tạo như phôi thai nhân tạo, tiêm gen hoặc kỹ thuật sinh học phân tử.

Việc chọn lựa trứng và tinh trùng để tạo ra cá thể mới có thể được thực hiện theo một số tiêu chí như đặc điểm di truyền, sức khỏe, năng suất sinh sản hoặc đặc tính cụ thể. Việc chọn lựa này có thể giúp tăng cường khả năng sinh trưởng, kháng bệnh, tăng cường năng xuất và cải thiện chất lượng trong sản xuất nông nghiệp và thủy sản.

Các phương pháp nhân tạo sử dụng trong vi nhân giống bao gồm liên kết tế bào, tiêm phôi, áp dụng điện xuyên qua và sử dụng vectơ virus để chuyển gen. Các kỹ thuật phân tử sinh học như PCR, southern blotting, northern blotting, western blotting và DNA sequencing cũng được sử dụng để xác định các đặc điểm di truyền trong vi nhân giống.

Vi nhân giống không chỉ được ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp và thủy sản, mà còn được áp dụng trong nghiên cứu khoa học, y học, chăm sóc thú cưng và bảo tồn đa dạng sinh học. Nó cung cấp chỉ đạo trong việc lựa chọn các gen có lợi và giúp tạo ra những cá thể có đặc điểm di truyền mới và đa dạng. Tuy nhiên, vi nhân giống cũng đặt ra một số vấn đề đạo đức và đối tượng tranh cãi liên quan đến an toàn thực phẩm, đạo đức trong nghiên cứu và ảnh hưởng đến đa dạng sinh học tự nhiên.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "vi nhân giống":

Nhận diện Danh tính Giọng nói: Phân chia Chức năng của STS Phải và Tính Liên quan Hành vi của Nó Dịch bởi AI
Journal of Cognitive Neuroscience - Tập 27 Số 2 - Trang 280-291 - 2015
Tóm tắt

Giọng nói của con người là phương tiện chủ yếu để truyền đạt lời nói nhưng cũng là dấu vân tay cho danh tính cá nhân. Các nghiên cứu neuroimaging trước đây đã chỉ ra rằng việc nhận diện lời nói và danh tính được thực hiện thông qua các con đường thần kinh khác nhau, mặc dù âm thanh giọng nói tạo ra sự thống nhất cảm nhận. Điều quan trọng là, STS phải đã được gán cho việc xử lý giọng nói, với những đóng góp khác nhau của các phần sau và trước của nó. Tuy nhiên, thời điểm mà việc xử lý giọng nói và giọng nói phân kỳ hiện vẫn chưa được biết đến. Ngoài ra, vai trò chính xác của STS phải trong quá trình xử lý giọng nói cho đến nay vẫn chưa rõ ràng bởi vì tính liên quan hành vi của nó chưa được xác định. Ở đây, chúng tôi đã sử dụng độ phân giải tạm thời cao của magnetoencephalography và một nhiệm vụ kiểm soát lời nói để xác định các tương quan hành vi tạm thời: chúng tôi phát hiện ra, sau 200 mili giây kể từ khi kích thích xuất hiện, rằng hoạt động ở STS trước phải dự đoán hiệu suất nhận diện giọng nói hành vi. Cùng lúc đó, STS sau bên phải cho thấy hoạt động tăng lên trong quá trình nhận diện danh tính giọng nói, trái ngược với nhận diện lời nói, trong khi STS giữa bên trái cho thấy mẫu ngược lại. Ngược lại với STS bên trái nhạy cảm với lời nói, kết quả hiện tại đã làm nổi bật STS bên phải như một khu vực quan trọng cho việc nhận diện danh tính giọng nói và cho thấy rằng sự phân chia giải phẫu-chức năng của nó xuất hiện khoảng 200 mili giây sau khi kích thích xuất hiện. Chúng tôi gợi ý rằng thời điểm này đánh dấu việc xử lý âm thanh giọng nói độc lập với lời nói ở STS sau và sự định hình thành công của chúng về danh tính giọng nói ở STS trước.

NHÂN GIỐNG IN VITRO LAN PHI ĐIỆP TÍM (Dendrobium anosmum)
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP - Số 3 - Trang 016-021 - 2013
Từ nguồn vật liệu ban đầu là quả Lan Phi điệp tím (Dendrobium anosmum), đã xây dựng thành công quy trình tạo cây con bằng kỹ thuật nuôi cấy in vitro. Quả lan được khử trùng bề mặt bằng HgCl2 0,1% trong 7 phút và khử trùng bằng NaOCl 5% trong 15 phút cho tỷ lệ mẫu sạch đạt và mẫu tái sinh cao nhất. Môi trường Knuds có bổ sung 0,3 mg/lNAA + 0,3 mg/l Kinetin + 0,3mg/l BAP cho hệ số nhân nhanh thể chồi đạt 5,8 lần/3 tuần, chất lượng thể chồi tốt. Sau 4 tuần, công thức bổ sung 30 g/l sucrose + 0,5 mg/l GA3 + 0,1 mg/l Kinetin chồi tăng trưởng tốt nhất (2,45 cm), chất lượng chồi tốt. Công thức bổ sung 0,5 mg/l IBA và công thức 0,3 mg/l IBA + 0,1 mg/l NAA cho tỷ lệ chồi ra rễ đạt 98%, số rễ trung bình đạt trên 3 rễ/ chồi, chất lượng rễ tốt. Khi cây có chiều cao > 4 cm, có 3-4 rễ đem bình cây ra huấn luyện ở điều kiện tự nhiên 1 tuần, rửa sạch thạch, đưa cây ra trồng trên giá thể.
#Dendrobium anosmum # #in vitro #Knuds #nhân giống #thể chồi
HOÀN THIỆN QUY TRÌNH NHÂN GIỐNG CÂY KHÔI TÍA (Ardisia sylvestris Pitard) BẰNG KỸ THUẬT NUÔI CẤY IN VITRO
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP - Số 1 - Trang 025-031 - 2019
Khôi tía (Ardisia sylvestris Pitard) là loài cây dược liệu có giá trị dược lý cao hiện đang bị khai thác quá mức dẫn đến nguồn gen bị cạn kiệt. Hoàn thiện quy trình nhân giống cây Khôi tía bằng phương pháp nuôi cấy in vitro đã được nghiên cứu thành công. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sát khuẩn bề mặt chồi non bằng ethanol 70% trong 1 phút, khử trùng bằng dung dịch HgCl2 0,1% trong 8 phút và nuôi cấy trên môi trường dinh dưỡng cơ bản MS (Murashige and Skoog, 1962) bổ sung 0,2 mg/l BAP, cho tỷ lệ mẫu sạch là 80,92%, cảm ứng tạo đa chồi trên môi trường MS bổ sung 1 mg/l BAP, 0,3 mg/l Kinetin, 0,1 mg/l NAA, 30 g/l sucrose và 7 g/l agar cho tỷ lệ mẫu tạo cụm chồi 99,31% với chiều cao chồi trung bình 3,7 cm và hệ số nhân đạt 9,13 lần/chu kỳ nhân giống sau 4 tuần nuôi cấy. Tỷ lệ chồi ra rễ 97,63%, số rễ trung bình đạt 4,45 rễ/cây và chiều dài rễ trung bình 3,25 cm khi nuôi trên môi trường MS bổ sung 0,5 m/l NAA, 20 g/l sucrose và 7 gr/l agar sau 4 tuần nuôi cấy. Quy trình nhân giống thành công có ý nghĩa lớn trong bảo tồn và phát triển loài cây dược liệu quý, đồng thời có thể áp dụng vào thực tiễn phục vụ sản xuất cây giống Khôi tía chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu nguồn cây giống hiện nay. 
#Ardisia sylvestris #cảm ứng tạo đa chồi #cây Khôi tía #nuôi cấy in vitro
NGHIÊN CỨU NHÂN GIỐNG IN VITRO RE HƯƠNG CINNAMOMUM PARTHENOXYLON (JACK) MEISN
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP - Số 20-10 - Trang 042-048 - 2017
Re hương là cây quí, đa tác dụng. Do có giá trị kinh tế cao nên hiện nay hoạt động khai thác trái phép loài cây này ở Việt Nam đang trở thành điểm nóng. Vì vậy, vấn đề nhân giống để bảo tồn loài cây này là hết sức cần thiết. Re hương khó tìm thấy cây mẹ trưởng thành để thu hái hạt nên nhân giống in vitro là có hiệu quả hơn cả trong việc nhân giống phục vụ trồng rừng bảo tồn cũng như trồng rừng diện lớn hơn sau này. Nhân giống Re hương bằng kỹ thuật nuôi cấy in vitro cho thấy khử trùng vật liệu nuôi cấy khởi đầu là chồi non bằng HgCl2 0,1%  trong 5 phút chia 2 lần (lần 1: 3 phút, lần 2: 2 phút) cho tỉ lệ mẫu sạch nảy chồi đạt 38,9%. Môi trường MS + 0,5 mg/l BAP + 0,1 mg/l kinetin là thích hợp nhất để tái sinh chồi lần một (tỉ lệ mẫu nảy chồi đạt 100% (với 3,2 chồi/nách lá); môi trường MS + 2,2 mg/l BAP + 0,1 mg/l kinetin +  0,1 mg/l NAA thích hợp nhất cho tạo cụm chồi (hệ số nhân chồi 3,5 lần và chiều cao trung bình chồi 2,2 cm). Môi trường tạo rễ thích hợp cho chồi Re hương in vitro là MS+ 0,4 mg/l NAA (tỉ lệ chồi ra rễ trên 94,4%, rễ có chất lượng tốt).
#Họ Long não #in vitro #nhân giống #Re hương
HOÀN THIỆN QUY TRÌNH NHÂN GIỐNG CÂY KHÔI TÍA (Ardisia sylvestris Pitard) BẰNG KỸ THUẬT NUÔI CẤY IN VITRO
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP - Số 1 - Trang 025-031 - 2019
Khôi tía (Ardisia sylvestris Pitard) là loài cây dược liệu có giá trị dược lý cao hiện đang bị khai thác quá mức dẫn đến nguồn gen bị cạn kiệt. Hoàn thiện quy trình nhân giống cây Khôi tía bằng phương pháp nuôi cấy in vitro đã được nghiên cứu thành công. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sát khuẩn bề mặt chồi non bằng ethanol 70% trong 1 phút, khử trùng bằng dung dịch HgCl2 0,1% trong 8 phút và nuôi cấy trên môi trường dinh dưỡng cơ bản MS (Murashige and Skoog, 1962) bổ sung 0,2 mg/l BAP, cho tỷ lệ mẫu sạch là 80,92%, cảm ứng tạo đa chồi trên môi trường MS bổ sung 1 mg/l BAP, 0,3 mg/l Kinetin, 0,1 mg/l NAA, 30 g/l sucrose và 7 g/l agar cho tỷ lệ mẫu tạo cụm chồi 99,31% với chiều cao chồi trung bình 3,7 cm và hệ số nhân đạt 9,13 lần/chu kỳ nhân giống sau 4 tuần nuôi cấy. Tỷ lệ chồi ra rễ 97,63%, số rễ trung bình đạt 4,45 rễ/cây và chiều dài rễ trung bình 3,25 cm khi nuôi trên môi trường MS bổ sung 0,5 m/l NAA, 20 g/l sucrose và 7 gr/l agar sau 4 tuần nuôi cấy. Quy trình nhân giống thành công có ý nghĩa lớn trong bảo tồn và phát triển loài cây dược liệu quý, đồng thời có thể áp dụng vào thực tiễn phục vụ sản xuất cây giống Khôi tía chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu nguồn cây giống hiện nay. 
#Ardisia sylvestris #cảm ứng tạo đa chồi #cây Khôi tía #nuôi cấy in vitro
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA HỆ THỐNG CHIẾU SÁNG ĐƠN SẮC ĐẾN QUÁ TRÌNH NHÂN GIỐNG IN VITRO CÂY HOA CHUÔNG (Sinningia speciosa)
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp - Tập 1 Số 1 - Trang 195-204 - 2017
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã sử dụng hệ thống chiếu sáng đơn sắc với hai loại đèn LED: Ánh sáng đơn sắc đỏ có bước sóng 650 nm (R), ánh sáng đơn sắc xanh có bước sóng 450 nm (B), kết hợp ánh sáng đơn sắc đỏ và ánh sáng đơn sắc xanh theo các tỷ lệ khác nhau cho quy trình nhân giống vô tính invitro cây hoa chuông, nhằm tìm ra được nguồn chiếu sáng đơn sắc phù hợp với từng giai đoạn trong quy trình nhân giống, để nâng cao chất lượng cây giống và hạ giá thành trong sản xuất thương mại ở quy mô lớn. Kết quả thu được cho thấy: trong quy trình nhân giống in vitro cây hoa chuông, hệ thống chiếu sáng đơn sắc sử dụng đèn LED tỏ ra vượt trội hơn so với sử dụng đèn huỳnh quang. Giai đoạn tái sinh chồi từ mô lá dưới điều kiện chiếu sáng sử dụng đèn LED kết hợp tỷ lệ 70% R + 30% B cho tỷ lệ mẫu tái sinh chồi, số chồi/mẫu đạt giá trị cao nhất lần lượt là: 75,33%; 1,96 chồi. Sử dụng ánh sáng đơn sắc đèn LED tỷ lệ 80% R + 20% B thích hợp nhất cho quá trình nhân nhanh chồi với hệ số nhân chồi đạt được là 7,87 lần, chiều cao chồi là 1,95 cm. Giai đoạn tạo cây hoàn chỉnh, sử dụng ánh sáng đơn sắc đèn LED tỷ lệ 70% R + 30% B là thích hợp nhất. Chiều cao cây đạt được là 7,54 cm, số lá 6,80 lá, số rễ 6,13 rễ, chiều dài rễ 2,07 cm, khối lượng tươi 1,24 g/cây. Cây giống hoa chuông in vitrom được nuôi cấy dưới điều kiện chiếu sáng đơn sắc LED tỷ lệ 70% R + 30% B khi đưa ra trồng ở giai đoạn vườn ươm thích nghi rất tốt với điều kiện tự nhiên. Tỷ lệ sống đạt 96,67%, thời gian ra rễ sau trồng 5 ngày.
#Ánh sáng đơn sắc #hoa chuông #nhân giống in vitro
Đánh giá các hệ thống nhận dạng giọng nói tiếng việt (vais, viettel, zalo, fpt và google) trong bản tin
Bài báo này giới thiệu kết quả đánh giá các hệ thống nhận dạng giọng nói tiếng Việt (VASP-Vietnamese Automatic Speech Recognition) trong bản tin từ các công ty hàng đầu của Việt Nam như Vais (Vietnam AI System), Viettel, Zalo, Fpt và công ty hàng đầu thế giới Google. Để đánh giá các hệ thống nhận dạng giọng nói, chúng tôi sử dụng hệ số Word Error Rate (WER) với đầu vào là văn bản thu được từ các hệ thống Vais VASP, Viettel VASP, Zalo VASP, Fpt VASP và Google VASP. Ở đây, chúng tôi sử dụng tập tin âm thanh là các bản tin và API từ các hệ thống Vais VASP, Viettel VASP, Zalo VASP, Fpt VASP và Google VASP để đưa ra văn bản được nhận dạng tương ứng. Kết quả so sánh WER từ Vais, Viettel, Zalo, Fpt và Google cho thấy hệ thống nhận dạng tiếng nói tiếng Việt trong các bản tin từ Viettel, Zalo, Fpt và Google đều có kết quả tốt, trong đó Vais cho kết quả vượt trội hơn.
#Natural language processing #Speech recognition #WER #News #Api
Improved in vitro rooting and acclimatization of “Violetta” Artichoke and “Green Globe” Artichoke
Vietnam Journal of Biotechnology - Tập 19 Số 1 - 2021
Artichoke (Cynara scolymus L.), a medicinal plant with high economic value, contains high levels of phenolic compounds; especially cynarine, which plays an important role in preventing cancer, cardiovascular disease, osteoporosis, diabetes and neurodegeneration, etc. Currently, Artichoke micropropagation has achieved some success; however, the rooting efficiency and plantlet quality are still limited. In this study, improving the quality of Artichoke plantlet related to the shoot quality and suitable substrates in in vitro rooting stage was studied on “Violetta” Artichoke (VA) and “Green Globe” Artichoke (GA). The results showed that shoots (1.5 cm) cultured on MS medium supplemented 0.5 mg/L KIN were most suitable to shoot multiplication of VA with the number of shoots/explant (3.67 shoots), number of shoots ≥ 2 cm (3 shoots); while, 1.0 mg/L BA was suitable to shoot multiplication of GA (5.33 shoots; 5.00 shoots; respectively) after 4 weeks of culture. Besides, the in vitro rooting was improved using 8 g/L commercial agar for VA; meanwwhile, 3 g/L gelrite for GA. In addition, the nylon bag culture system (120 mm × 250 mm) has potential in plantlet production (15 plants/bag) and can be applied for large scale micropropagation. In addition, VA and GA plantlets derived from in vitro culture gave the good acclimatization, growth and development after 8, 12 and 20 weeks cultivating at the green house conditions.
#Artichoke #giá thể #ra rễ in vitro #thích nghi vườn ươm #vi nhân giống
Tổng số: 107   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10